NĂM MỚI AN KHANG THỊNH VƯỢNG..
Thứ Hai, 22 tháng 12, 2008
Thứ Hai, 24 tháng 11, 2008
Thứ Bảy, 22 tháng 11, 2008
Hãy quên đi lý thuyết bão hoà
Một trong những lời chỉ trích thường xuyên đối với kinh doanh theo mạng là lý thuyết bão hòa. Theo giả thuyết này, mỗi cơ hội kinh doanh theo mạng cuối cùng sẽ đi đến kết cục chấm hết khi những nhà phân phối không còn có thể bán hàng hoặc tuyển mộ được nhà phân phối nữa. Tuy vậy, trên thực tế giả thuyết này thật ra không có thật.
Sau ít nhất ba thập niên tuyển mộ tối đa, ngay cả những công ty kinh doanh theo mạng lớn nhất vẫn còn tìm thấy vô số nhà phân phối và khách hàng. Chỉ cần xem qua những công ty như Amway Và Avon, cả hai đều có doanh số hơn 3 tỉ/ năm.
Thành công của những công ty kinh doanh theo mạng khác đang nối gót theo sau những công ty nói trên và mỗi ngày một thịnh vượng hơn. Thậm chí cho đến ngày hôm nay đã có 5 đến 10 triệu người là nhà phân phối tại Mỹ, một quốc gia có dân số hơn 250 triệu người. Và phần còn lại của thế giới thì đang được các nhà kinh doanh theo mạng nỗ lực tiếp cận đến. Sự tăng trưởng toàn cầu đang tiếp tục diễn ra với một tốc độ gia tăng nhanh chóng về doanh số hơn 50 tỉ, dù chỉ 14 triệu người có liên quan đến ngành kinh doanh theo mạng trong một thế giới với 5 tỉ người.
Vài năm trước đây, lý thuyết bão hòa bị được đề cập đến trong một trường hợp tranh chấp pháp lý nổi tiếng có liên quan đến một công ty có tên Go-Re-Mar. Chương trình của công ty này bị lên án là sơ đồ hình tháp ảo với lời cáo buộc rằng chính sách bán hàng của nó cuối cùng không có chỗ cho những tân binh mới. Nhưng, theo như kết luận của toà, sự việc trong thực tế không xảy ra như vậy. Thay vào đó, toà phúc thẩm Hoa Kỳ, tuy đã thêm thắt những chi tiết khôi hài trong quan điểm của họ về công ty bán hàng lừa bịp này, cũng đã làm sáng tỏ về vấn đề trên:
‘Bằng chứng duy nhất ủng hộ cho FTC là kế hoạch vốn không công bằng và lừa bịp trong các công thức toán học, cho thấy rằng nếu như mỗi người tham gia vào kế hoạch kinh doanh này tuyển mộ 5 người mới mỗi tháng và mỗi người trong các tân binh đó lại tuyển thêm 5 người vào tháng tiếp theo, và nếu tiến trình này cứ được cho phép tiếp diễn, chỉ sau 12 tháng số lượng người tham gia sẽ vượt hơn 244 triệu, bao gồm cả toàn bộ nhân sự của FTC”
"Toà kết luận rằng vấn đề này, trên thực tế, là giấc mơ không thể đạt được và tiếng hát êm ái đó của Symbra ' Ette phải được làm lắng đi. Chúng ta không tìm thấy có sự bất thường nào trong toán học hoặc phép ngoại suy và đồng ý rằng viễn cảnh một phần tư tỉ người bán áo ngực và thắt lưng không những là không thể đạt được mà còn chỉ nghĩ đến thôi cũng đã quá sức khủng khiếp, đặc biệt khi đó vượt quá dân số của một quốc gia, mà chỉ có một nửa số người trong đó có hy vọng là những khách hàng tương lai của đồ lót. Tuy nhiên, chúng ta sống trong một thế giới thực và không phải là vùng đất của tưởng tượng."
Như những số liệu trong bản tuyên cáo, sự thật là Symbra' Ette, được khởi sự kinh doanh vào 1963,vẫn không đạt đến đỉnh về số lượng phân phối viên dù cho đến năm 1972 nó đã được thu hút 3,635 nhà phân phối. Bản tuyên cáo không chỉ ra việc phân phối theo địa lý của những nhà cung cấp nào. Và chúng ta không thấy có bất kỳ nghiên cứu hoặc phân tích nào trong bản tuyên cáo chứng minh hiện thực rằng một sự bão hòa nào đó tồn tại khiến cho những nhà phân phối mới gia nhập vào cũng như việc tuyển mộ của những người khác không thể đạt được trong thực tế. Tuy toà án không cần phải chứng minh sự lưà gạt của công ty với bằng chứng của những doanh nhân thất bại, người ta đã gần như thất bại trong việc chứng minh một lời khuyến cáo vốn còn tiềm ẩn. Không phải cả nước Mỹ ai cũng đều quan tâm đến vấn đề này và không phải tất cả đều bị thu hút vào những gì sẽ tiếp diễn.
Thật ra, miễn là khi nào có một thị trường cho một sản phẩm, thì sẽ có những cơ hội mới cho những nhà phân phối. Chẳng hạn, trong khoảng thời gian 10 năm Amway phát triển cả thị trường mới cho những sản phẩm của nó xâm nhập vào thị trường Nhật Bản, bỏ túi doanh số trên một tỉ đô la/ năm. Những công ty kinh doanh theo mạng tại Mỹ đang liên tục xâm nhập vào những thị trường dân cư mới Ví dụ, sự gia tăng nhanh chóng của thị trường cộng đồng Tây Ban Nha đã cho thấy những kết quả tăng trưởng đáng kể. Những công ty như Discovery Toys có mở ra những thị trường kinh doanh theo mạng cho các nhà phân phối là giáo viên. Tập đoàn A.L. Williams mở thị trường kinh doanh theo mạng cho những đại lý bảo hiểm làm việc bán thời gian. Quorum International, với lĩnh vực những sản phẩm an toàn cá nhân, mở ra cho các nhà phân phối kinh doanh theo mạng dịch vụ luật pháp dành cho cá nhân và an ninh cho người bán hàng trong thế giới kinh doanh theo mạng.
Sự khuyếch trương của tập đoàn kinh doanh nhượng quyền khổng lồ, McDonald’s, đã mở một đường song song hấp dẫn tới những cơ hội tăng trưởng ở nước ngoài của hàng tiêu dùng Mỹ. Tỷ lệ những người tới những quán ăn của McDonald ở nước ngoài gợi cho chúng ta hình dung về những khả năng mở rộng, và cũng khẳng định rằng thị trường sẽ không trở nên bị bão hòa đối với sản phẩm tiêu dùng nổi tiếng nhất của Mỹ, bánh mỳ kẹp thịt của McDonald.
Tỷ lệ người tới những quán ăn của McDonald
Mỹ 27 nghìn/ 1 quán
Canada 40 nghìn/ 1
Australia 47 nghìn/ 1
Anh 108 nghìn/ 1
Nhật bản 124 nghìn/1
Đức 177 nghìn/ 1
Cũng như kinh doanh theo mạng, thế giới đang đợi McDonalds. Mặc dù các nhà phân phối kinh doanh theo mạng bán mọi kiểu sản phẩm tiêu dùng có thể hình dung được, sự thật là trong cuộc sống hàng ngày về những sản phẩm chủ yếu của ngành kinh doanh này, những sản phẩm sức khỏe và mỹ phẩm, người ta nói rất nhiều về sự bão hòa của cơ hội bán được sản phẩm. Bạn hãy đến tầng đầu tiên của bất kỳ cửa hàng bách hóa nào và lưu ý rằng ở đó quầy tính tiền mỹ phẩm hầu như lúc nào cũng đông nghẹt người. Khu vực sức khỏe và dinh dưỡng của trung tâm mỗi siêu thị cũng tương tự như vậy. Miễn là bạn nhìn thấy những bộ phận này, bạn sẽ biết rằng vẫn còn có nhiều thị trươờng cho nhà phân phối kinh doanh theo mạng.
Như vậy lần sau nếu có ai đó nói với bạn về lý thuyết bão hoà, hãy kể cho họ về Amway và Avon. Kể cho họ về Go-Re-Mar, về Macsdonald khổng lồ.
Thứ Tư, 29 tháng 10, 2008
Thứ Ba, 28 tháng 10, 2008
Hãy sống ngày hôm nay như là ngày cuối cùng của cuộc đời.
Sự thực thì, không ai trong chúng ta biết ta sẽ sống bao lâu. Tuy nhiên buồn thay, ta cứ hành động như thể cuộc đời là bất tử. Ta trì hoãn những việc mà, tận thâm tâm ta, ta biết là muốn làm: Bảo cho người thân ta biết ta thực sự lo lắng cho họ thế nào, có thời giờ cho riêng mình, thăm người bạn thân mà đã bao không gặp, đi dã ngoại nơi thắng cảnh, chạy thể dục đường dài, viết một lá thư hết sức chân tình, đi câu với con, học cách trầm tư, làm người biết lắng nghe, và nhiều hơn nữa…Ta đưa ra những lý luận cực kỳ chi tiết và hợp lý để minh chứng cho hành động của mình chỉ để sử dụng phần lớn thời gian và công sức làm những việc không thực sự quan trọng. Ta bàn cãi về những hạn chế của mình và chúng chính là những hạn chế của ta.
Hãy sống mỗi ngày như ngày cuối cùng của cuộc đời bạn, vì cuộc đời quan trọng và ý nghĩa dường nào.
Richard Carlson
Thứ Bảy, 11 tháng 10, 2008
MLM hình thức kinh doanh hợp pháp hay bất lương?
Câu trả lời ngắn gọn là : có thể là tất cả.
Đây chính là nguyên nhân của 99% các cuộc tranh cãi và bất đồng chung về MLM. Nhiều người cho rằng MLM là một hình thức không đúng nguyên tắc và vô đạo đức.
Còn các Bộ trưởng Tư pháp thì nói rằng MLM hoàn toàn mang tính hợp nguyên tắc và đạo đức. Thế thì ai đúng?
Thực tế là nó cũng có thể mang tính đạo đức và cũng có thể mang tính vô đạo đức. Điều đó phụ thuộc cách hoạt động và quản lý của từng công ty cụ thể.
Khi ngành MLM còn non trẻ (khoảng 40 năm tuổi đời), luật cho ngành này cứ bị thay đổi liên tục. Phải thừa nhận rằng có nhiều công ty MLM không có gì hơn ngoài những việc làm bất chính và làm giàu cho các ông chủ và bạn bè của họ. Thậm chí một số trong đó còn tìm cách qua mặt luật pháp để tránh bị khởi tố. Có một số công ty thì có sản phẩm tốt và có thể đã hoạt động nhiều năm, nhưng chính từ phương cách hoạt động đã khiến cho nhiều người phải chuốc họa vào thân: chẳng hạn như những người phụ nữ lớn tuổi đã bỏ tiền lương hưu của mình ra để mua sản phẩm chất đống trong nhà. Hầu hết người ta đều chấp nhận những công ty này, hoặc ít nhất những người phân phối có làm những chuyện đáng ngờ cũng không mang tính thất đức lắm.
Nói cách khác, có những công ty hoạt động hợp pháp, hợp lý và hợp qui tắc đạo đức. Họ sản xuất ra những sản phẩm tốt do chính người tiêu dùng định giá, và tạo cơ hội cho nhiều người cải thiện được khả năng tài chính của họ.
Những người không ủng hộ MLM thường khẳng định rằng các công ty MLM chỉ bán những sản phẩm có thu nhập ảo, tuyển “những tấm bia đỡ đạn” để “vỗ béo” những người tuyến trên của họ. Quan điểm này khá dễ hiểu, nhưng đã thiếu đi một điểm quan trọng: thông thường, mỗi người mới đều có CƠ HỘI NHƯ NHAU với người tuyến trên của mình trong việc xây dựng nhóm. Người tuyến trên cũng đã phải làm việc cật lực (có thể trải qua nhiều năm) để xây dựng tuyến dưới của mình và hưởng được những phần thưởng xứng đáng. Nó chỉ công bằng khi tất mọi người cùng xuất phát từ một nơi, và mọi người đều có cơ hội như nhau trong việc xây dựng tuyến dưới cho riêng mình. Một ngoại lệ lớn trong vấn đề này là trường hợp bị “bão hòa”. Trong trường hợp này, công ty đã phát triển rất lớn đến nỗi tỉ lệ những người muốn tham gia đều đã tham gia. (Xin lưu ý ở đây không có nghĩa là TỪNG người được tham gia). Lúc này người mới tham gia sẽ gặp nhiều khó khăn hơn trong việc tìm thành viên mới so với thời gian những năm trước đó. Người mới sẽ đứng trước nhiều lựa chọn hơn: vẫn tham gia với công ty đó và sống chung với tình trạng “bão hòa”; tham gia công ty khác chưa có tình trạng bão hòa; hoặc bỏ cuộc.
Mặc khác, dù có thể gặp nhiều khó khăn hơn trong việc tìm người mới một khi công ty đã phát triển rộng lớn, nhưng những người mới tham gia vào công ty này sẽ có NHIỀU phương tiện và kỹ thuật hỗ trợ cho họ hơn so với việc phải khởi sự ở một công ty mới thành lập. Ngoài ra các công ty này sẽ có nhiều sản phẩm hơn cũng như các tài liệu cũng mang tính chuyên nghiệp hơn.v.v…Dù những người tiên phong đó có thể có những khoảng không gian rộng rãi để hoạt động, nhưng đồng thời họ cũng có nhiều rủi ro hơn phía sau lưng mình. Trên thực tế sự bão hòa không phải là một vấn đề khó giải quyết. Tùy vào một công ty cụ thể tại một địa bàn cụ thể mà có thể dễ hoặc khó tìm những thành viên mới hơn, nhưng có rất ít trường hợp thật sự bị “bão hòa”. Điều chúng ta cần biết là sự bão hòa không phải là một vấn đề rõ ràng; một công ty có thể đạt GẦN TỚI độ bão hòa công ty khác, nhưng không hoàn toàn bị “bão hòa”.
Các luận cứ không ủng hộ MLM thường tính đến sự gia tăng theo số mũ và chứng minh rằng toàn bộ dân số trên thế giới sẽ gia nhập vào MLM trong một thời gian ngắn. Nhưng trên thực tế nó không diễn ra như vậy. Cái đà phát triển thông thường chậm hơn nhiều so với nhận định của mọi người, và sẽ chậm xuống khi công ty đạt tới mức độ bão hòa. Việc tuyển người mới vào một công ty lớn và sắp bão hòa có thể là rất khó, nhưng chưa có công ty nào trong lịch sử MLM đã phát triển đạt độ nhanh đến nỗi phải làm kiệt quệ thị trường tiềm năng của nó. Ít ra cho đến bây giờ, sự phát triển của các công ty MLM vẫn chưa theo kịp tốc độ phát triển của dân số.
Chính vì vậy, theo ý kiến của nhiều người, MLM có thể hoạt động một cách hợp pháp, đúng nguyên tắc và đạo đức, nhưng đồng thời nó cũng có thể hoạt động một cách bất hợp pháp và vô đạo đức.Do đó bạn hãy cẩn thận chọn cho mình một công ty để tham gia.
Sưu tầm từ mạng
Thứ Hai, 29 tháng 9, 2008
Thứ Ba, 23 tháng 9, 2008
NETWORK MARKETING KIYOSAKI
Video 1
Video 2
Trên đây là đoạn video nói về kinh doanh theo mạng của KIYOSAKI
Thứ Hai, 15 tháng 9, 2008
4 nguyên tắc khởi nghiệp kinh doanh
1. Tìm ra nhu cầu và đáp ứng nhu cầu đó. Khi làm việc cho Hãng IBM, ông Ross Perot đã nhận thấy rằng, khách hàng mua máy tính hiệu IBM có nhu cầu được hỗ trợ về xử lý dữ liệu. Ông đã trình bày ý tưởng này với lãnh đạo IBM, nhưng họ nói họ không quan tâm. Khi đó, ông Ross Perot đã đi đến quyết định mở doanh nghiệp riêng. Nhờ ý tưởng nhạy bén này của mình, ông Ross Perot đã kiếm được 2,8 tỉ USD.
2. Phát hiện vấn đề và giải quyết vấn đề đó. Một cô thư ký làm việc cho một công ty nhỏ đã tìm cách pha bột mì với thuốc bôi móng tay để tạo ra một thứ dung dịch trắng để phủ lên những chỗ cô đánh máy sai. Thấy sử dụng hiệu quả, bạn bè của cô trong văn phòng đã đề nghị cô pha chế cho một chút dung dịch đó. Sau đó, nhiều người ở những cơ quan khác cũng muốn có được loại sản phẩm mới này của cô. Từ đó, cô đã bỏ việc cơ quan và dành tất cả thời gian để phát triển và kinh doanh cái mà hiện nay được gọi là Liquid Paper. Được biết, mấy năm trước, cô ta đã bán công ty của mình cho Hãng Gillette Corporation với giá 47 triệu USD.
3. Tìm kiếm giải pháp. Tìm cách để cung cấp một sản phẩm hoặc dịch vụ tốt hơn, rẻ hơn, nhanh hơn và dễ dàng hơn.
4. Tập trung vào khách hàng của mình. Hãy luôn nghĩ đến khách hàng và gắn bó với khách hàng. Ông Thomas J. Watson, người sáng lập ra Hãng IBM đã xây dựng công ty theo nguyên tắc: “Hãy nghĩ về cái khách hàng cần, cái khách hàng muốn, cái mà khách hàng sẵn sàng chi trả và những vấn đề mà họ có thể gặp phải”.
Khởi nghiệp kinh doanh không bao giờ là quá muộn
Trong khi một số người bắt đầu công việc kinh doanh từ khi còn rất trẻ, một số khác lại bắt đầu khi đã về già. Với Miller, sự nghiệp kinh doanh được khởi đầu khi bà đã về hưu và bệnh tật hiểm nghèo ập đến. Theo bà, bắt đầu kinh doanh ở độ tuổi nào không quan trọng, khi đã trở thành một doanh nhân, bạn cần gặt hái thành công. Có thể nói khó khăn đã không làm cho bà lùi bước mà chỉ khuyến khích bà thành công trong công việc. Đối với bà Miller, có quá nhiều khó khăn đến với bà cùng một lúc: mất việc làm, bắt đầu công việc kinh doanh, và chiến lược căn bệnh ung thư - tất cả những gian nan này ập đến khi bà 60 tuổi. Vượt qua tất cả những tai ương và thách thức, bà đã thành công. Chỉ trong vòng 5 năm, bà đã chèo lái một công ty từ chỗ không có tên tuổi trở thành một công ty doanh thu nhiều triệu đô la.
Không bao giờ là quá muộn để bắt đầu!
Đây không phải là lần đầu tiên Barbara Miller thành lập một doanh nghiệp. Thực tế là đã có khá nhiều năm trong cuộc đời bà đã làm việc cho các công ty hoạt động trong cuộc đời bà đã làm việc cho các công ty hoạt động trong ngành sản xuất giấy. Tuy nhiên, một sự thay đổi không mong đợi đã nhiều bà từ vị trí người làm công thành người “cầm lái”. Bà Miller nói Tôi đã làm việc trong ngành này hơn 30 năm. Một sự việc xảy ra làm một số người trong chúng tôi mất việc. Chúng tôi đã nhận định được rằng, nếu chúng tôi thực sự muốn một công ty giấy, chúng tôi sẽ làm được điều đó. Chính vì thế chúng tôi bắt đầu khi đã quá tuổi.
Cùng với các đồng nghiệp cũ, bà Miller cùng bỏ vốn mở công ty riêng. Công ty giấy Miller bắt đầu hoạt động từ vốn tháng 1 năm 1995 với 15 nhân viên. Công ty này có trụ sở tại Amarillo, Texas, hiện là một nhà bán buôn hàng đầu ở vùng trung tâm miền tây nước Mỹ. Khi tuổi đã cao, bà Miller đã chứng minh rằng không bao giờ quá muộn để bắt đầu một sự nghiệp kinh doanh.
Cuộc chiến đấu chống lại số phận
Thử thách lớn nhất đối với bà trong những ngày đầu khởi nghiệp không đơn giản là vấn đề huy động vốn hay tìm một đội ngũ quản lý giỏi mà là một cuộc chiến thắng bệnh tật.
5 tháng sau khi thành lập công ty, bà được chẩn đoán mắc ung thư buồng trứng. Những người khác sẽ bị ám ảnh bởi cái chết nhưng bà thì không. Bà nhờ bác sĩ phẫu thuật làm yên lòng con trai mình: Bà ấy đã già, bà ấy sẽ vượt qua được.
May mắn là, bệnh của bà đã được phát hiện khi mới chớm. Bà đã được phẫu thuật để ngăn cản sự phát triển của căn bệnh. Bà cho biết thêm: Sau khi phẫu thuật, tôi còn thực hiện một cá ghép tủy vào năm 1997
Bệnh tật có ảnh hưởng đến việc kinh doanh của bà không? Bà Miller đã giao cho một nhóm điều hành công việc. Những người làm việc trong công ty của tôi đều là việc. Những người làm việc trong công ty của tôi đều là những cá nhân nổi bật. Hoàn toàn không có vấn đề gì cả họ biết rằng họ đang làm gì. Họ chỉ thực hiện công việc thôi! Trong suốt thời gian khó khăn để chiến thắng với bệnh tật, bà vẫn chỉ đạo và đưa ra những quýêt định sáng suốt cho hoạt động kinh doanh của công ty và vẫn rất năng động.
Phát triển công ty
Mắc bệnh ung thư là một thách thức lớn trong cuộc đời bà. Thậm chí bác sĩ của bà không thể tưởng tượng được rằng, trong gian mang bệnh bà vẫn điều hành công ty nhiều triệu đô la với tốc độ tăng trưởng hàng năm 20%.
Được thành lập với số vốn ban đầu 300.000 USD, công ty giấy Miller đã đạt doanh thu gần 3 triệu USD trong năm đầu tiên. Bà Miller cho biết năm 1999 chúng tôi bán được trên 7 triệu USD và mức tăng trưởng trung bình hàng năm là 20%. Chúng tôi khá nổi tiếng trong ngành sản xuất giấy. Chúng tôi đã may mắn.
Hiện công ty giấy Miller có tổng diện tích 15.000m2 với 33 công nhân và cung cấp giấy cho rất nhiều ngành. Chúng tôi cung cấp văn phòng phẩm đủ loại, khăn ăn, giấy vệ sinh, giấy ăn, cốc, nguyên liệu đóng gói và nhiều thứ khác. Với mục tiêu đề ra : phát triển bằng cách đa dạng hóa sản phẩm và giữ được các đơn đặt hàng. Bà Miller tự hào :chúng tôi cung cấp sản phẩm cho mọi khách hàng. Khi một doanh nghiệp thành lập và hoạt động, họ sẽ cần đến sản phẩm của chúng tôi.
Quy mô kinh doanh đã mở rộng đến vùng Texas, New Mexico và Oklahoma, với bán kính khoảng 150 dặm từ Amarillo. Thông qua đội ngũ bán hàng và marketing giỏi, bà Miller đã mở rộng thị trường họat động của công ty.
Trong những ngày đầu, bà đã tập trung nguồn lực vào tăng trưởng và mở rộng, giới thiệu sản phẩm mới hoặc phát triển khu vực bán hàng. Bằng cách này hay cách khác chúng tôi nỗ lực mở rộng phạm vi hoạt động. Chúng tôi mở rộng bằng cách bao phủ những khu vực mới và cung cấp sản phẩm mới. Chúng tôi làm cả hai việc.
Bà Miller cũng thành lập một trang Web giới thiệu và bán sản phẩm có dụng địa chỉ.
Bí quyết thành công
Năm 2000, công ty đã đạt giải thưởng doanh nghiệp kinh doanh nhỏ của năm. Bà Miller phát biểu :Tiêu chuẩn giải thưởng là phải tăng trưởng, giữ vững, vượt qua những khó khăn và được ngừơi tiêu dùng ủng hộ - và công ty giấy Miller đáp ứng được tất cả những đòi hỏi này”
Luôn lạc quan và đam mê, đó là tính cách của bà. Bà nói : Mỗi khi thức dậy, tôi đều cảm thấy hứng khởi khi nghĩ đến những việc mà ngày hôm nay sẽ diễn ra, nghĩ đến cái mà chúa đã ban cho chúng tôi cũng như chờ mong mọi việc sẽ diễn ra như thế nào.
Đâu là bí quyết thành công của công ty giấy Miller? Miller luôn tin tưởng ở đội ngũ nhân viên, thân thiết với họ và luôn nhận thức được tầm quan trọng của họ đối với sự thành công của công ty. Bà thừa nhận rằng, bà có nhiều ảnh hưởng đối với công ty, nhưng bà vẫn quý trọng nhân viên của bà, những người được bà gọi bằng cái tên trìu mến là những người giỏi giang, biết việc.
Bà khẳng định bí quyết là có một đội ngũ nhân lực tốt biết phải làm gì và để họ tự làm việc. Sức mạnh của công ty chúng tôi là do có đội ngũ nhân viên như thế. Chúng tôi giống như một gia đình nhỏ. Mọi người đều tin tưởng ở đồng nghiệp của mình.
Lời khuyên của bà đối với các doanh nhân ? Tìm hiểu nhu cầu khách hàng và quan tâm đến những yêu cầu đó. Bạn mang lại cho người khác cái gì thì sẽ nhận lại cái đó. Hãy làm cho khách hàng cảm thấy họ quan trọng. Vì thực sự họ như thế. Nếu bạn để mất họ, bạn sẽ chuốc lấy thất bại trong kinh doanh.
Bà Miller là một phụ nữ bằng việc điều hành công việc kinh doanh thực tế của mình đã chứng tỏ rằng, khi ở tuổi về hưu cũng có thể bắt đầu bằng một công ty nhiều triệu USD. Hãy thu nạp những người thạo việc để họ làm việc cho công ty và cho họ thấy họ luôn nhận được sự ủng hộ của bạn. Không nhất thiết phải quản lý quá chặt chẽ và bạn sẽ phải ngạc nhiên về những gì họ làm được.
10 lời khuyên trước lúc khởi nghiệp
2. Khởi nghiệp khi bạn vẫn đang còn đi làm cho người khác. Người ta có thể sống mà không có tiền trong bao lâu? Không lâu lắm! Trong khi bạn có thể mất khá nhiều thời gian trước khi doanh nghiệp mới của bạn thực sự kiếm ra tiền. Đi làm thuê cho người khác trong khi bắt đầu doanh nghiệp riêng của mình có nghĩa là bạn vẫn có tiền trong túi trong giai đoạn đầu khởi nghiệp.
3. Đừng bắt đầu một mình. Bạn cần một hệ thống hỗ trợ khi bạn bắt đầu một doanh nghiệp (và cả sau đó nữa). Một thành viên trong gia đình hoặc một người bạn mà bạn có thể chia sẻ ý tưởng, họ biết lắng nghe một cách cảm thông và cho rằng ngay cả khi thất bại thì việc khởi nghiệp của bạn cũng là một bài học vô giá. Sẽ tốt hơn nếu bạn tìm được một cố vấn giàu kinh nghiệm, nếu bạn đủ khả năng, để đăng ký vào một chương trình đầu tư cho những người khởi nghiệp. Sự chỉ dẫn của người dày dạn kinh nghiệm là cách hỗ trợ tốt nhất.
4. Việc đầu tiên là tìm khách hàng. Đừng đợi cho tới khi bạn khai trương chính thức công việc kinh doanh của mình mới tìm kiếm khách hàng, bởi vì việc kinh doanh không thể sống sót nếu thiếu họ. Xây dựng mạng lưới. Tạo dựng các quan hệ. Bán hoặc thậm chí cho không sản phẩm hoặc dịch vụ của bạn. Bạn không thể bắt đầu công việc marketing quá sớm.
5. Viết kế hoạch kinh doanh. Lý do chính để viết kế hoạch kinh doanh như một việc làm cần thiết đầu tiên là nó có thể giúp bạn tránh được việc lãng phí thời gian và tiền bạc vào việc bắt đầu một công việc kinh doanh không dẫn tới thành công. Người ta nói rằng không lập kế hoạch chính là lập kế hoạch cho thất bại.
6. Nghiên cứu. Bạn sẽ thực hiện rất nhiều nghiên cứu thông qua việc viết kế hoạch kinh doanh, nhưng đó mới chỉ là bắt đầu. Bạn cần phải trở thành một chuyên gia về lĩnh vực, sản phẩm và dịch vụ của mình, nếu như bạn chưa thực sự là một chuyên gia. Tham gia vào các nhóm xã hội hoặc các nhóm chuyên môn trong lĩnh vực của bạn trước khi bắt tay xây dựng doanh nghiệp là một ý tưởng hay.
7. Nhờ chuyên gia giúp đỡ. Vì bạn chỉ điều hành một doanh nghiệp nhỏ, không có nghĩa là bạn phải trở thành chuyên gia trong mọi vấn đề của doanh nghiệp. Nếu bạn không phải là một kế toán hay một người trông hàng, hãy thuê họ. Nếu bạn cần soạn hợp đồng, và bạn không phải là luật sư, hãy thuê họ. Bạn sẽ lãng phí thời gian và có thể là cả tiền bạc nữa, trong một giai đoạn dài, để tự làm những việc mà bạn chưa đủ khả năng làm.
8. Lên kế hoạch cho đồng vốn. Tiết kiệm, nếu bạn phải làm như vậy. Hãy tiếp cận các nhà đầu tư tiềm năng và những người cho vay. Tính xem kế hoạch tài chính phải cần đến của bạn là bao nhiêu. Đừng khởi nghiệp với ý nghĩ sẽ đi đến ngân hàng và rút tiền. Các nhà cho vay truyền thống không thích những ý tưởng mới và không thích những doanh nghiệp không chứng minh được khả năng tài chính.
9. Chuyên nghiệp ngay từ đầu. Tất cả mọi việc về bạn và cách bạn điều hành công việc của mình cần phải làm cho mọi người thấy rằng bạn đang tiến hành một công việc kinh doanh nghiêm túc và chuyên nghiệp. Điều này có nghĩa là bạn phải chuẩn bị tất cả những thiết bị cần thiết như danh thiếp, điện thoại liên lạc, địa chỉ email công việc, đối xử với mọi người một cách chuyên nghiệp và lịch sự.
10. Quan tâm tới các vấn đề pháp lý và thuế trước tiên. Sẽ khó khăn hơn rất nhiều khi phải giải quyết một đống lộn xộn rắc rối đằng sau nếu không để ý ngay đến những vấn đề này. Bạn có phải đăng ký kinh doanh không? Bạn phải nộp những khoản thuế nào? Bạn có phải nộp bảo hiểm và thuế thu nhập cho nhân viên không? Loại hình doanh nghiệp mà bạn lựa chọn sẽ ảnh hưởng như thế nào tới vấn đề thuế thu nhập doanh nghiệp của bạn? Hãy tìm hiểu về các trách nhiệm pháp lý và thuế của bạn trước khi bạn bắt đầu hoạt động và kinh doanh.
Theo DĐDN
_________________
Con Đường Đi Đến Sự Tự Do Về Tài Chính
Hãy đặt nền móng để xây dựng doanh nghiệp riêng!
Hỏi : Tôi mới tham gia vào KDTM nhưng công ty khá uy tín có bề dày thành công. Tôi cảm thấy bối rối và hơi bị choáng ngợp trước sự phức tạp của ngành kinh doanh này. Chúng tôi có hàng trăm sản phẩm, băng và viđêô tài liệu huấn luyện, và có cả một web-site lớn để khách hàng của tôi có thể đặt hàng mua hàng. Dường như có hàng triệu cách để xây dựng một doanh nghiệp KDTM. Tôi không biết nên bắt đầu từ đâu. Các anh có thể gợi ý giúp tôi chăng?
Đáp: Tôi tin rằng bản thân chúng ta (hoặc những thế hệ tương lai) một ngày nào đấy sẽ phải chứng kiến những thay đổi có tính cách mạng trong ngành công nghiệp KDTM đã được phát triển suốt 5 năm qua. Ngày nay, có quá nhiều công ty, quá nhiều sản phẩm, quá nhiều thông tin và quá nhiều cơ hội xứng đáng với công sức và sự nỗ lực của chúng ta.
Đã có ngày càng nhiều nhà phân phối thành công và khôn khéo hơn khi ngành kinh doanh của chúng ta ngày một phát triển hơn. Thế nhưng, bên cạnh đó vẫn còn có một số lượng khổng lồ nhà phân phối đang phải tranh đấu để làm việc trong KDTM.
Nhiều nhà phân phối cảm thấy hụt hẫng khi đi sâu vào ngành này. Họ gặp khó khăn trong việc tìm hiểu và làm việc với quá nhiều công cụ bán hàng, hệ thống kinh doanh và kế hoạch trả thưởng. Và với những thông tin của vô số công ty được điều khiển bằng công nghệ và hệ thống hỗ trợ đổ dồn vào các nhà phân phối này, không khó hiểu vì sao quá nhiều người lại thất vọng, vỡ mộng và bỏ cuộc quá sớm.
Vì bạn dù sao cũng chỉ mới bắt đầu, dưới đây là một vài lời khuyên dành cho bạn:
Bạn không thể nào làm việc hoặc hiểu được mọi thứ về KDTM chỉ trong vài tuần hay thậm chí là vài tháng. Bạn hãy nghĩ thế này: chúng ta đến trường phổ thông trong suốt 12 năm trời và học đại học 4 năm để kiếm một công việc có mức lương từ 3000 đến 5000 đô la/ năm. Nhưng khi chúng ta tham gia vào KDTM, nếu chúng ta không kiếm được 10000 đô la một tháng từ hoa hồng của những đơn đặt hàng, chúng ta sẽ sẵn sàng bỏ đi.
Nghiên cứu của tôi về những nhà phân phối KDTM thành công nhất cho thấy rằng họ luôn thường xuyên theo đuổi việc củng cố kiến thức KDTM và xem việc kiếm được tiền sau đó như thành công của cuộc hành trình suốt đời mình..
Điều đó không có nghĩa rằng là một người mới thì bạn không có cơ hội nào để thành công ngay. Tương tự như một tay chơi kỳ cựu thì cũng vẫn phải luôn tìm công thức đúng đắn để thành công. Hãy luôn ghi nhớ rằng rất nhiều người khác cũng đã bước đi trên con đường này. Vấn đề với đa số những người mới tham gia vào KDTM là cần phải chọn được đúng công ty, với đúng sản phẩm và hệ thống đúng đắn phù hợp với phong cách, sở thích và kỹ năng của họ.
Một tài sản lớn cho bạn trong việc cộng tác với một công ty đã có tên tuổi là thừa hưởng kinh nghiệm thành công từ rất nhiều người có quá trình làm tiên phong xây dựng doanh nghiệp. Tuy nhiên, đó có thể cũng là rào cản cho bạn, nếu họ không huấn luyện cho bạn một kế hoạch đơn giản, định hướng để làm thế nào sử dụng được kiến thức này.
Để khởi nghiệp, hãy chọn ra một hoặc hai sản phẩm mà bạn cảm thấy tốt. Sau đó chọn hai hoặc 3 phương thức bán hàng đã được chứng tỏ hiệu quả từ tài liệu hướng dẫn của bạn. Tập trung vào những phương pháp này, nhớ tránh bị cám dỗ thử nghiệm thêm nhiều phương pháp khác nữa. Nói khác hơn, bạn nên "thu hẹp" thay vì là "triển khai"phạm vi tìm hiểu và đầu tư công sức của mình. Hãy làm hệt như cách của người bảo trợ cho bạn: chọn hai sản phẩm mà bạn cảm thấy là hứng thú nhất và tập trung vào đó.
Mục tiêu của bạn là luôn giữ cho kế hoạch càng đơn giản càng tốt nhưng không được biến chúng trở nên quá sơ sài và đơn điệu.
Nói cách khác, đừng quá lơ là, nhưng cũng đừng vội làm quá nhiều. Bạn hãy đi từng bước một và đánh giá thành công của bạn mỗi ngày trong một giai đoạn nhất định.Thật thế, dù cho bạn có lên thác xuống ghềnh, thì nếu bạn luôn kiên trì, luôn theo đuổi mục đích của bạn đến cùng, rồi bạn cũng sẽ đi đến đích.
Thế nào là một sản phẩm tốt ?!
Hỏi : Tôi đã xem xét rất nhiều công ty kinh doanh theo mạng và chưa thể quyết định được đâu là lựa chọn tốt nhất. Sản phẩm đóng vai trò quan trọng ra sao trong quyết định của tôi?
Đáp : Các phân phối viên độc lập thành công nhất là những người đã có được kỹ năng chọn đúng công ty với đúng sản phẩm đúng thời điểm. Hẳn bạn từng nghe ai đó nói rằng: “Thời gian sẽ quyết định tất cả”
Câu nói này đặc biệt xác thực trong giới kinh doanh. Khả năng nhận định được sản phẩm hoặc khuynh hướng mới có thể giúp bạn tăng tốc độ thành công với tiềm năng tài chính.
Điều này cực kỳ quan trọng nếu bạn muốn khởi tạo điểm bắt đầu cho vòng đời của những sản phẩm hấp dẫn, mới mẻ và dễ bán.
Tất nhiên, mọi công ty đều sẽ chào hàng với bạn các sản phẩm của họ rằng: “đó là những sản phẩm mới và tuyệt hảo nhất”. Nhưng chúng ta hoàn toàn hiểu được rằng việc xác định thời điểm là một trong những điều kiện thiết yếu để bạn có thể nhanh chóng rút ngắn lộ trình tìm kiếm sự độc lập tài chính.
Những mặt hàng sốt dẻo của năm trước thì có thể sang năm nay đã bị nhái tràn ngập trong một thế giới cạnh tranh khốc liệt của những người KDTM chuyên bắt chước.
Trước khi đầu tư thời gian và tiền bạc của mình vào một công ty mới chỉ bởi vì một sản phẩm mới, bạn hãy chắc chắn rằng sản phẩm đó thực sự là duy nhất. Nếu phát hiện ra quá muộn thì bạn đã có vô vàn đối thủ cạnh tranh có thể tạo nên kết quả khác biệt tốt hơn so với bạn vì họ có đầy kinh nghiệm và làm việc quá lâu năm trong ngành.
Những ý tưởng và công dụng của sản phẩm mới phải dựa trên sự nhận định chính xác nhu cầu khách hàng cần, muốn và mong đợi những gì. Một công ty phát minh một sản phẩm mới và hệ thống kinh doanh phải định vị đúng mức về sản phẩm để tạo ra lòng hăng hái cho những nhà phân phối của nó. Tìm thấy niềm hứng thú đối với những sản phẩm mới cần phải là một quyền ưu tiên đặc biệt cho mỗi nhà phân phối nghiêm túc tìm " bắt được sóng " của một khuynh hướng sản phẩm mới.
Đây là chín câu hỏi quan trọng khi đánh giá mỗi sản phẩm :
1. Công dụng, được dùng để phân biệt sản phẩm này, có đáp ứng một nhu cầu hoặc thỏa mãn một mong muốn nào của khách hàng?
2. Khách hàng có nhận được một giá trị hợp pháp khi mua hàng?
3. Liệu khách hàng có nhận thấy chất lượng tương tự như họ nhận thấy được ở những nhãn hiệu khác của nhà nước?
4. Sản phẩm có mang lại được cho khách hàng những lợi ích cao cấp hơn so với những sản phẩm tương tự có sẵn trên thị trường hay không?
5. Sản phẩm mới có giải quyết được cho khách hàng vấn đề mà những sản phẩm tương tự chưa làm được?
6. Có yếu tố tiện ích nào của sản phẩm khiến nó vượt lên hàng đầu so với những sản phẩm tương tự không?
7. Sản phẩm có thể tiêu thụ được hay mang lại dòng thu nhập thặng dư nào đó không?
8. Những mức lợi nhuận có thích đáng với công sức bạn bỏ ra hay không?
9. Công ty có cung cấp cho bạn những phương tiện hỗ trợ và trợ giúp bán hàng giúp cho công việc của bạn dễ dàng hơn?
Nếu bạn đủ may mắn để tìm được một công ty với một sản phẩm mới cho bạn có thể trả lời “có”với những câu hỏi trên, bước tiếp theo là hãy xem xét mô hình và hệ thống hỗ trợ kinh doanh của công ty. Biết cách làm thế nào để đặt những câu hỏi xác thực chính là bước quan trọng nhất trong quá trình tìm thấy câu trả lời giúp bạn quyết định có học hỏi kinh doanh trong KDTM hay không.
Hình tháp ảo
Hàng ngàn người Mỹ mất hàng triệu USD khi tham gia vào Hình tháp ảo. Nhiều nạn nhân biết rằng mình như đang đánh bạc (mặc dù họ không biết rằng những sự bất hợp lý và lòng tham đã giết chết họ). Tuy nhiên nhiều người khác thì nghĩ rằng họ trả tiền để được giúp đỡ mở doanh nghiệp nhỏ cho riêng mình. Những người này bị lừa bởi Hình tháp ảo đã “hoá trang” cho giống kinh doanh hợp pháp.
Mục đích của mục này nhằm giúp bạn tránh không trở thành nạn nhân của Hình tháp ảo, cả dạng đơn giản đến tinh vi. Hình tháp ảo đơn giản thì tương tự như những bức thư dây chuyền, trong khi dạng tinh vi thì như cáo đội lốt cừu, che dấu bộ mặt thật của chúng để lừa gạt những người đầu tư tiềm năng và né tránh những quy định của pháp luật.
Hình tháp ảo là một mưu đồ bất lương phi pháp trong đó phần lớn những người tham gia sau (ở đáy hình tháp) phải trả tiền cho những người tham gia trước (ở đỉnh hình tháp). Mỗi một người mới phải trả một khoản phí cơ hội cho những người ở trên đỉnh hình tháp và lợi nhuận có được của người đó chính là sự chi trả của những người kế tiếp đó nữa. Ví dụ: để tham gia bạn phải trả một khoản đầu tư từ nhỏ cho đến hàng nghìn USD. Trong ví dụ này, 1000$ bỏ ra để mua một vị trí trong nhóm ở tầng thấp nhất. 500$ sẽ vào túi của người trực tiếp tham gia trước bạn, và 500$ vào túi của những người trên đỉnh hình tháp, những người sáng lập! Nếu hình tháp theo biểu đồ lấp đầy người tham gia, thì người sáng lập sẽ kiếm được 16000$ trong khi bạn và nhiều người khác ngang mức bạn ở đáy hình tháp sẽ mất 1000$. Khi người sáng lập nhận được tiền rồi, nhóm của anh ta sẽ tách ra và người kế tiếp anh ta (ở tầng thứ hai) sẽ thay thế vị trí của anh ta. Chỉ khi đó thì tầng thứ hai mới bắt đầu có lợi nhuận. Để trả hoa hồng cho cả hai, 32 vị trí trống sẽ được thêm vào ở đáy hình tháp, và sự lôi kéo người mới tiếp tục diễn ra.
Mỗi một lần một tầng chuyển lên đỉnh, một tầng mới được thêm vào ở đáy hình tháp, mỗi lần gấp đôi lần trước đó. Nếu đủ người tham gia, bạn và 15 người khác cùng mức của bạn sẽ chuyển lên đỉnh. Tuy nhiên để thu thập đủ người để có thu nhập, thì bạn phải lôi kéo được 512 người, một nửa số đó mất mỗi người 1000$.
Dĩ nhiên, hình tháp có thể sụp đổ rất lâu trước khi bạn leo lên tới đỉnh. Để cho mọi người trong hình tháp ảo đều có lợi nhuận, thì số lượng người mới tham gia vào phải là…vô tận!
Tuy nhiên trên thực tế, số người tham gia là có giới hạn, và mỗi mức mới tham gia vào đều có ít cơ hội tuyển mộ thêm người nhưng lại thừa cơ hội mất tiền!
Những điều lưu ý về Hình tháp ảo
1.Chúng là hệ thống của hàng loạt người thua cuộc. Chúng dựa vào một công thức đơn giản: nhiều người thua cuộc trả tiền cho vài người thắng cuộc.
2.Chúng là sự lừa đảo. Những người tham gia vào hình tháp ảo, cố ý hoặc vô ý, lừa dối những người mà họ tuyển mộ. Một số người sẽ bỏ tiền tham gia nếu những sự mâu thuẫn được giải quyết, tất nhiên là bằng ngụy biện.
3.Chúng bất hợp pháp. Có một nguy cơ cụ thể là các dạng hình tháp ảo sẽ bị các cơ quan có thẩm quyền đóng cửa và những người tham gia có thể bị trừng trị hoặc bị bắt.
Mặt trái của một mô hình kinh doanh mới
Hoạt động kinh doanh bán hàng đa cấp là một mạng lưới bán hàng mà bản thân nó thiết yếu phải duy trì một hoạt động kinh doanh cung cấp hàng hóa cho người tiêu dùng thông qua mạng lưới từ đó thu được lợi nhuận. Hoạt động bán hàng đa cấp là hợp pháp nếu doanh nghiệp thu được doanh số bán hàng hóa thông qua mạng lưới phân phối đa cấp, theo đó lợi nhuận kinh doanh của doanh nghiệp được thu từ việc mua hàng hóa của người tham gia phục vụ cho mục đích sử dụng hoặc để bán lại và những người tham gia có thể giới thiệu thêm người mới tham gia vào mạng lưới phân phối này.
Nói cách khác, các hoạt động kinh doanh bán hàng đa cấp chỉ thu được lợi nhuận hợp lý của mình từ việc thúc đẩy những người tham gia bán hàng hóa và giới thiệu những người mới tham gia vào mạng lưới bán hàng. Quy định như thế nhưng trên thương trường có muôn vàn muôn vẻ các hình thức khác nhau của hoạt động bán hàng đa cấp. Và chính sự phong phú đôi khi đã vi phạm các quy định pháp luật.
Trung Quốc là một thị trường đang trên đà phát triển rất nhanh. Và cùng với đó các hoạt động bán hàng đa cấp đáng ngày trở nên quen thuộc với người dân. Nhưng đôi khi, nhiều doanh nghiệp đã lợi dụng sự phức tạp của hoạt động bán hàng đa cấp để thu lợi cho riêng mình. Công ty Ann Tai là một minh chứng điển hình. Điều tra của Uỷ ban Thương mại lành mạnh Trung Quốc cho thấy việc công ty Ann Tai thực hiện cái được gọi là hệ thống thưởng kinh doanh bán hàng đa cấp cùng với tình hình hoạt động thực của hãng là vi phạm các nguyên tắc của hoạt động bán hàng đa cấp theo quy định pháp luật tại Bản quy định Giám sát Bán hàng đa cấp.
Từ lâu, hãng Ann Tai luôn nổi tiếng với mạng lưới bán hàng hoạt động theo nguyên tắc “thưởng”. Bất kể ai muốn trở thành thành viên của mạng lưới Ann Tai chỉ cần mua một đơn vị quyền hoạt động là sẽ có 10.000 điểm tích luỹ. Với một lần giới thiệu thành công 2 người tham gia mới mạng lưới, người tham gia đó có quyền nhận tiền thưởng hàng tuần và quyền này là "không hạn chế về phạm vi trong hệ thống đa cấp hoặc giới hạn về thời gian". Thêm nữa, người tham gia này chỉ cần đầu tư một lần trong suốt cuộc đời của mình (tức là trị giá mua lúc gia nhập là 10.000 điểm tích luỹ) để được tiêu dùng lại sau khi kết thúc một chu kỳ (bắt đầu từ tiền thưởng của mình) và nhận được một khoản tiền thưởng mà không có hạn chế nào về số lượng chu kỳ.
Tổ chức của hệ thống Ann Tai chủ trương "cùng tồn tại và cùng có lợi. Hợp tác có tổ chức để từ đó dẫn đến việc thành lập một tổ chức hệ thống trong đó những thành viên hiệu quả nhất là nguời mất ít điểm tích luỹ nhất thu được tỷ lệ cao nhất và lượng tiền thưởng cao nhất thông qua sự liên kết nhân tạo”. Thu nhập của những người tham gia này không phải từ việc thúc đẩy và bán hàng hóa, dịch vụ với mức giá thị trường hợp lý mà từ việc giới thiệu thành viên mới tham gia mạng lưới này. Về chất lượng hàng hóa, Ann Tai đã không ban hành bất kỳ một phiếu khiếu nại hàng hóa nào bởi nó chỉ nhận một số ít loại hàng hóa. Mặc dù Ann Tai đã tham gia vào cái được gọi là "liên kết với các hoạt động kinh doanh khác" nhằm đạt được việc cung cấp hàng hóa đó để bán nhưng lợi nhuận thu được từ bán hàng của hoạt động kinh doanh liên kết là rất hạn chế.
Một người tham gia nhằm kiếm được 10.000 điểm sẽ tốn nhiều tiền để mua hàng hóa hơn là để bán. Bởi vậy, những người tham gia tập trung vào số lượng giới hạn hàng hóa mang lại điểm cao hơn, từ đó dẫn đến sự tích trữ hàng hóa. Thậm chí những người tham gia có thể thu được tiền thưởng trước khi họ khiếu nại các hàng hóa mà họ đã đặt hàng. Điều đó để nói, những người tham gia thậm chí phải thúc đẩy hoặc bán hàng hoá này cho người tiêu dùng. Họ chỉ cần giới thiệu những người tham gia khác vào tổ chức này và họ có thể thu được tiền thưởng. Ngoài ra, tại Ann Tai có những quy định không phù hợp để hạn chế những người tham gia không được rút khỏi hệ thống hoặc trả lại hàng hóa, tạo nên các hành vi thực hiện bán hàng đa cấp trái với quy định pháp luật.
Từ những lý do như vậy, Ann Tai đã vi phạm Bản quy định Giám sát Bán hàng đa cấp Trung Quốc. Vào năm 1996, Ann Tai đã báo cáo Uỷ ban Thương mại lành mạnh việc hãng thay đổi "hệ thống thưởng không cân bằng" này. Ngay sau khi có báo cáo, Ann Tai đã thay đổi các điều kiện nhận thưởng. Những điều kiện mới quy định rằng khi người tham gia mạng lưới của Ann Tai, việc tích luỹ điểm sẽ được hoàn thành trong vòng một tuần. Nếu người tham gia này không đạt được số điểm như yêu cầu trong thời hạn một tuần thì điểm tích luỹ của người tham gia sẽ lại phải bắt đầu từ 0 (Zero). Yêu cầu này khác so với "không hạn chế thời gian" tại phần thứ nhất. Tuy nhiên, Ann Tai đã không báo cáo Uỷ ban Thương mại lành mạnh trước khi thực hiện yêu cầu mới này và đã không liệt kê yêu cầu mới này khi những người tham gia mới tham gia vào tổ chức. Hành vi này rõ ràng là vi phạm Bản quy định Giám sát Bán hàng đa cấp Trung Quốc.
Về việc giải quyết các đề nghị trả lại hàng, sổ tay kinh doanh của Ann Tai quy rằng khi một người tham gia có yêu cầu trả lại hàng hóa, người tham gia chỉ có thể trả lại 25% trí giá của hãng hoá đã mua. Hạn chế này là trái với Bản quy định Giám sát Bán hàng đa cấp quy định rằng sau khi chấm dứt một hợp đồng, doanh nghiệp bán hàng đa cấp sẽ mua lại hàng hoá được sở hữu bởi người tham gia liên quan với mức giá bằng 90% mức giá mua ban đầu mà người tham gia này đã thanh toán.
Uỷ ban Thương mại lành mạnh đã cử người đến hiện trường của Ann Tai để kiểm tra những tài liệu tham khảo bằng văn bản này mà Bản quy định Giám sát Bán hàng đa cấp đã yêu cầu chuẩn bị. Ann Tai đã không cung cấp tài liệu để điều tra với lý do rằng họ đã không thể xuất trình thông tin được yêu cầu hàng tháng vì lý do chương trình máy tính liên quan.
Một số người đã tham gia cùng với Ann Tai khi có yêu cầu rút khỏi hệ thống, mặc dù trên thực tế hàng hoá này chưa bao giờ được sử dụng, nhưng những người này chỉ được trả lại 25% giá mà họ đã phải trả. Ann Tai nêu lý do rằng khoản tiền thưởng này đã được phân phối đến những thành viên tham gia và không thể được trả lại. Diễn giải của Uỷ ban Thương mại lành mạnh theo tham chiếu quy định pháp luật Trung Quốc cho rằng khi một người tham gia vào hoạt động bán hàng đa cấp yêu cầu rút khỏi hệ thống, số tiền của họ được khấu trừ từ số tiền đã được phân phối cho người tham gia này trong giai đoạn ban đầu. Ann Tai đã không tìm cách lấy lại khoản tiền thưởng từ những người tham gia mà lại trừ số tiền thưởng nói trên từ số tiền phải hoàn lại cho bên trả lại hàng. Hành vi này một lần nữa rõ ràng vi phạm Bản quy định Giám sát Bán hàng đa cấp.
Luật Thương mại lành mạnh Trung Quốc quy định rằng bán hàng đa cấp không được thực hiện nếu các thành viên của nó nhận được hoa hồng, phần thưởng bằng tiền hoặc lợi ích kinh tế khác chủ yếu từ việc giới thiệu người khác tham gia vào bán hàng chứ không phải là từ việc tiếp thị hoặc bán hàng hóa hoặc dịch vụ đó với mức giá thị trường hợp lý. Ở đây, những người tham gia bán hàng đa cấp của Ann Tai nhận được hoa hồng, tiền thưởng hoặc các lợi ích tài chính khác chủ yếu dựa trên việc họ giới thiệu các thành viên mới chứ không phải là dựa trên những khoản thu nhập từ việc thúc đẩy hoặc bán hàng hoá, dịch vụ với mức giá thị trường hợp lý. Việc làm này của Ann Tai đã vi phạm Luật Thương mại lành mạnh và Bản quy định Giám sát Bán hàng đa cấp. Do tính nghiêm trọng của những hành vi vi phạm này, Uỷ ban Thương mại lành mạnh đã quyết định Ann Tai bị phạt tiền là 500.000 nhân dân tệ và phải đình chỉ hoạt động kinh doanh của mình kể từ ngày nhận được quyết định của Uỷ ban Thương mại lành mạnh. Đối với việc Ann Tai đã vi phạm Luật Thương mại lành mạnh, Uỷ ban Thương mại lành mạnh đã chuyển vụ việc này sang cơ quan chức năng khác để điều tra hình sự.
Trên thương trường, nếu doanh nghiệp tuân theo đúng những quy định về việc bán hàng đa cấp thì mô hình kinh doanh mới này sẽ đem lại cho doanh nghiệp những hiệu quả rõ nét. Minh chứng là rất nhiều công ty lớn trên thế giới ngày nay đều duy trì cho mình một hệ thống bán hàng đa cấp hiệu quả. Tuy nhiên, nếu doanh nghiệp lợi dụng việc bán hàng đa cấp để phục vụ những lợi ích cho riêng mình thì hậu quả đôi khi rất khôn lường bởi mỗi quốc gia đều có những quy định và chế tài xử phạt riêng đối với hoạt động kinh doanh đặc thù này.
Nhận diện chân tướng Hình tháp ảo
Cả KDTM lẫn hình tháp ảo đều có những hệ thống thanh toán đa cấp, nhưng sự tương đồng chỉ đến đó là chấm hết. Nếu như Kinh doanh theo mạng là hợp pháp, hợp với luân thường đạo lý trong kinh doanh thì Hình tháp ảo lại bất hợp pháp, là những trò chơi gian lận lừa bịp không hơn không kém. Trong KDTM, bạn là một người bán hàng hợp pháp về một sản phẩm hoặc dịch vụ cũng như cơ hội kinh doanh. Còn trong một hình tháp ảo, bạn chẳng qua chỉ là một cái móc câu mồi.
Nhưng bạn làm thế nào để phân biệt ra chúng một cách rạch ròi? Jeffrey Babener, một chuyên gia pháp lý và luật sư của kinh doanh theo mạng tại Oregon, Phần Lan, xác nhận rằng không có pháp chế quy định rõ ràng về vấn đề này, ngay cả trong Chính phủ liên bang và các nhà lãnh đạo cũng có quan điểm rất khác nhau. Tuy nhiên, trong cuốn “Cẩm nang thành công của nhà kinh doanh theo mạng” của ông viết cùng David Stewart ( Tác giả “ấn bản Legaline”, 1990) Babener và Stewart đã tiết lộ những tín hiệu báo động đỏ mà có thể dẫn đến việc các cơ quan an ninh sẽ điều tra một doanh nghiệp :
* Cơ hội để đầu tư kinh doanh là " Sản phẩm ". Nếu người ta không có bán ra bất cứ sản phẩm hay dịch vụ hợp pháp nào, mà chỉ là cơ hội, thì những cơ hội và sự thúc đẩy kinh doanh đó là một sơ đồ hình tháp ảo.
* Các sản phẩm được bán với mức giá cả đội lên quá cao. Đôi khi những người sáng lập hình tháp ảo cố đeo mặt nạ che dấu bộ mặt thật của họ bằng việc bán sản phẩm. Thường thì sản phẩm sẽ có giá cực đắt và như vậy khó mà nghĩ đến các hoạt động phân phối bán lẻ, cuối cùng chân tướng hiện thân của tiết mục bán hàng lộ ra là kế hoạch trả thưởng.
* Những chương trình yêu cầu mua hàng dự trữ. Một cơ hội KDTM hợp pháp không yêu cầu bạn mua những số lượng hàng dự trữ bất hợp lý nhằm để khởi sự doanh nghiệp của mình.
* Những chương trình yêu cầu các khoản đầu tư tiền mặt ban đầu. Theo Babener, nhiều chính phủ đã xem việc đòi hỏi khoản tiền đầu tư từ 500USD trở lên là "quá đáng kể " và công ty nào có chính sách đó sẽ nghiễm nhiêm thu hút được sự lưu ý của cơ quan an ninh pháp luật.
* Những chương trình yêu cầu buộc phải mua những sản phẩm hoặc dịch vụ hỗ trợ hoặc thiết bị ngoại vi. Một vài hình tháp ảo tìm cách che giấu chân tướng của họ bằng việc cung cấp công cụ hướng dẫn khởi động việc kinh doanh với giá tối thiểu và sau đó buộc người đầu tư phải mua những công cụ đắt hơn như tài liệu đào tạo hoặc hỗ trợ bán hàng. Babener đoan chắc rằng những tài liệu hướng dẫn khởi động doanh nghiệp cũng như việc bán các phương tiện hỗ trợ như thế cần phải sát giá với chi phí của công ty.
*Những công ty không chấp nhận cho "trả lại hàng”
Theo Babener "Cần tránh những kế hoạch kinh doanh mà nội dung các văn bản của họ không đồng ý mua lại một tỉ lệ hợp lý hàng dự trữ không bán được, hoặc những công cụ hướng dẫn kinh doanh không có giá trị sử dụng trong khoảng thời gian xác định sau khi mua ".
* Những chương trình trả chi phí cho chiêu mộ người mới. “Một cơ hội KDTM hợp pháp sẽ có kế hoạch trả thưởng dựa vào lượng sản phẩm bán được chứ không phải dựa vào việc tuyển người mới “ Babener khẳng định: nếu tiền được dùng để trả cho việc đăng ký những nhà phân phối mới chứ không phải là những sản phẩm được bán, thì doanh nghiệp đó có vẻ là một sơ đồ hình tháp ảo.
* Những người chiêu mộ không nói đúng về thu nhập tiềm năng. Nếu cơ hội kinh doanh được bán đại loại là dạng sơ đồ làm giàu chóng vánh, bạn nên đề phòng! Những người duy nhất trở nên giàu có là những kẻ thôi thúc được người khác mua quyền tham gia vào một trò gian lận tội lỗi.
Phải chăng KDTM là lừa đảo?
Hỏi : Vài người bạn liên tục thuyết phục tôi chấp nhận cho họ bảo trợ tham gia vào KDTM, một hình thức có vẻ như là một dạng trò bạc bịp hoặc hình tháp ảo.
Một số người khác thì nói rằng KDTM là bất hợp pháp và tôi sẽ dây vào rắc rối. Làm thế nào để tôi biết được đâu là hợp pháp và chân chính?
Đáp : Để giúp bạn hiểu rõ KDTM là gì, trước hết tôi giải thích những gì không đúng là KDTM.
Trước hết, KDTM không phải là một sơ đồ hình tháp ảo. Hình tháp ảo là chương trình tương tự như một dây chuyền mà người ta đầu tư tiền bạc vào lời hứa hão rằng những người khác tham gia sau họ sẽ mang tiền đến và cứ như thế khiến họ trở nên giàu có. Một hình tháp ảo rõ ràng là trò bạc bịp và không có cơ sở giao dịch thực tế. Thông thường, hình thức này sẽ không hề có sản phẩm, mà chỉ là tiền trao tay. Các hình tháp ảo hiện đại ngày nay có thể có sản phẩm, song chúng chẳng qua chỉ là để nguỵ trang cho trò bạc bịp này.
KDTM là dạng kinh doanh hợp pháp.
Thứ nhất, nó được dựa trên cơ sở cung cấp những sản phẩm thiết thực, hợp pháp phục vụ nhu cầu và mong muốn của người tiêu dùng với giá cả phải chăng. Tuy rằng có một vài người làm được khá nhiều tiền thông qua mạng lưới kinh doanh đa cấp, nhưng lợi tức tài chính của họ chủ yếu là thành quả của công sức đầu tư xây dựng mạng lưới bán hàng và cung cấp dịch vụ thực tế.
Hình tháp ảo bất hợp pháp và thường dựa vào việc lợi dụng người khác. Để một người thật sự kiếm được tiền trong hình tháp ảo thì những người khác phải mất tiền. Nhưng trong KDTM, mỗi người có thể nhân bội số lên công sức, kỹ năng và năng khiếu của mình bằng cách giúp cho những người khác thành công. KDTM đã chứng minh nó là một phần của nền kinh tế mới và là phương thức kinh doanh có nhiều ưu thế được ưa chuộng trên khắp thế giới. KDTM không phải là lợi dụng bạn bè và người thân của bạn. Chỉ cách đây vài năm, KDTM có nghĩa là bán lẻ và nhận bảo trợ cho những người từ “danh sách người quen” là đối tượng tiềm năng của bạn. Mặc dù việc chia sẽ sản phẩm hoặc dịch vụ cũng như cơ hội cho những người bạn quen biết thì vẫn còn là nền tảng của ngành KD này, nhưng ngày nay chúng ta đã thấy có nhiều người sử dụng công nghệ kinh doanh tiên tiến như Internet, điện đàm hội nghị, và các công nghệ bảo trợ từ xa để mở rộng mạng lưới của họ ra khắp cả nước
Thứ hai, KDTM không phải là một mô hình làm giàu nhanh chóng. Tuy có vài người có thể kiếm được tiền rất nhanh. Nhiều người khác nói rằng những người đó gặp may. Nhưng để thành công trong KDTM thì không dựa vào may mắn. Đáng tiếc là, tiền bạc không thể tự mọc cánh và bay vào trong tài khoản ngân hàng của bạn dù cho ai đó có hứa hẹn với bạn điều đó đi chăng nữa.Thành công trong KDTM phụ thuộc vào những nguyên tắc rất cơ bản song lại khá tích cực
Thứ ba, Chúng ta sẽ bàn tiếp về KDTM là gì.
KDTM là một ngành KD nghiêm túc của những người nghiêm túc. Nó là một hệ thống chân chính và minh bạch trong đó việc thiết lập, kiến tạo và đầu tư tiền bạc cho đội ngũ lãnh đạo đã trở thành đường tiến đến thành công cho bạn
Chỉ tuân theo hệ thống đơn giản, minh bạch và theo cấp số nhân mà công ty chân chính đưa ra
Yếu tố then chốt là: KDTM thực chất chính là tìm kiếm sức bật đòn bẩy. Bạn có thể tạo sức bật thời gian và tăng số giờ nỗ lực bỏ ra để bảo trợ người khác và kiếm được một phần thu nhập nhỏ từ công sức của họ
J. Paul Getty, Người tạo ra một trong những khối của cải lớn nhất thế giới, đã nói rằng: “kiếm tiền từ được 1 % công sức của 100 người khác thì còn hơn là 100% công sức của chính mình” Khái niệm rất cơ bản này là bí kíp của KDTM
Chẳng hạn, phần lớn những người thành công trong KDTM đều làm xem đây là phương pháp làm việc của họ
Mỗi tuần họ làm việc vài giờ, mỗi giờ được xem như là công sức bỏ ra để phục vụ việc xây dựng và phát triển doanh nghiệp lâu dài của mình. Đó là khi họ bảo trợ cho những người khác và đào tạo những người này cách bán hàng và rồi lại bảo trợ cho những người khác sao chép hệt quy trình trên. Bằng cách giúp đỡ những người khác, bạn sẽ trực tiếp bảo trợ những nhà bảo trợ tương lai, nhân thành nhiều bản sao khác của bạn. Khi tiến trình này tiếp tục, bạn tạo ra sự tăng trưởng bội số có thể dẫn hàng trăm người đến với doanh nghiệp của bạn. Bạn tạo sức bật cho thời gian của mình bằng cách giúp những người khác trở nên thành công và kiếm được thu nhập từ tất cả những nỗ lực của họ
Với KDTM, không yêu cầu phải có vốn lớn, không bị giới hạn về địa lý, không có mức thu nhập tối thiểu, và không cần bạn phải có trình độ hoặc kỹ năng đặc biệt nào. KDTM là một doanh nghiệp có mức chi phí khởi nghiệp thấp, làm việc tại gia thực sự có nhiều ưu đãi về thuế liên quan đến việc sỡ hữu doanh nghiệp của họ
KDTM là một doanh nghiệp giữa người và người có thể mở rộng đáng kể vòng tròn bè bạn cuả chúng ta
Chính đây là ngành kinh doanh cho bạn có điều kiện đi du lịch và giải trí cũng như tận hưởng cuộc sống từ nguồn thu nhập thặng dư kiếm được.
Kinh doanh theo mạng - Nghề mới của thế kỷ XXI
Tuy nhiên người ta nhận thấy mức độ dễ hiểu càng ít bao nhiêu thì càng nhiều phản ứng âm bấy nhiêu, và ngược lại. Ngoài ra còn một nguyên nhân nữa làm cho sự đánh giá về loại hình thuộc bán hàng trực tiếp này không mấy dễ chịu – đó là có nhiều kiểu hình tháp hoạt động nhân danh KDTM. Muốn gọi những người làm việc theo kiểu như vậy là gì cũng được, nhưng đó không phải là các nhà phân phối, các công ty đó cũng vậy, ai muốn gọi là gì thì tuỳ, chỉ không được gọi đó là KDTM. Sự phân biệt ở đây rất đơn giản: các công ty khả nghi đó làm gì đi chăng nữa thì họ chỉ trả tiền thuần tuý cho việc lôi kéo thành viên mới từ đồng tiền thu được bất chính từ chính những người dại dột kết nối vào chuỗi các nhà đầu tư bị lường gạt đó. Một công ty KDTM chân chính bao giờ cũng đưa ra thị trường, và mặt hàng này chỉ có ở đây chứ không có ở đâu khác. Chất lượng – nhất định là phải đặc biệt tốt. Hoa hồng chỉ được trả trên cơ sở hàng được thực sự bán ra, vì thế các nhà phân phối của công ty biết rất rõ điều này.
Có thể lấy ví dụ về một công ty KDTM hàng đầu – Công ty “Vision International People Group” mới ra đời cách đây không lâu. Các nhà phân phối của Vision biết rất rõ sản phẩm mà họ đưa ra thị trường. Cơ thể con người trong điều kiện sinh thái hiện đại cần chính những thành phần chứa trong các chất bổ sung dinh dưỡng có hoạt tính sinh học cao và trong mỹ phẩm mà công ty đang phân phối. Tại sao nên nghe theo ý kiến của họ? Bởi vì trước khi giới thiệu sản phẩm này một cách rộng rãi thì họ đã kiểm định tác dụng của chúng trên chính họ và những người thân của họ (đó là một trong những đòi hỏi để trở thành nhà phân phối), cảm thấy sức khoẻ của họ đã được cải thiện ra sao, tự thấy dung nhan của họ đã tốt hơn như thế nào. Chính họ đã nói: “Công ty đầu tiên cho chúng tôi sức khoẻ, và sau đó – thông qua chúng tôi – đến những người khác”
Nhưng để truyền bá những sản phẩm này thì cần phải có những kỹ năng, bởi vì nhà phân phối, đó là một nghề. Người ta không sinh ra là nhà phân phối ngay được. Đó là một nhiệm vụ không đơn giản. Bởi vì để trở thành một nhà KDTM chân chính và thành đạt thì phải học được cách không đầu hàng, cần biết cách đi thẳng đến mục đích và không bao giờ lùi bước.
Sự sáng suốt của ban lãnh đạo Vision là ở chỗ họ hiểu và tính được khó khăn đó là đến đâu. Và vì thế không ở một công ty nào có được thái độ nghiêm túc như thế đối với vấn đề đào tạo. Bản thân hệ thống trả công truyền bá sản phẩm được xây dựng để khuyến khích các nhà phân phối có kinh nghiệm đào tạo những người mới đi theo họ. Người đỡ đầu (đó là cách gọi người giới thiệu trong Vision từ thuật ngữ tiếng Anh “sponsor”) có lợi ích vật chất không phải từ số lượng các “học trò” của mình mà là từ sự thành công của họ. Người đỡ đầu được công ty trả hoa hồng theo doanh số bán hàng của mạng lưới. Đó chính là phần thưởng nếu nhà phân phối biết cách đưa mạng lưới đến thành công, qua đó nhà phân phối giải quyết được những vấn đề vật chất của mình khi đạt đến độ độc lập về tài chính.
Các ưu tiên sau được đưa lên hàng đầu: làm thế nào dạy cho người của mình phân phối sản phẩm một cách tốt nhất, giúp đỡ những người đang cần trợ giúp như thế nào. Trong công ty Vision, người ta rất thường xuyên tiến hành các hoạt động từ thiện. Một nhà phân phối hàng đầu – đó là một trách nhiệm lớn và một sự phát triển không ngừng về tinh thần bởi vì nếu bạn không ngừng phát triển, không trở thành một người ưu tú, thì mọi người sẽ không đi theo bạn. Và vì thế về nhiều mặt đào tạo KDTM – đó là sự thay đổi cách nhìn nhận, cách quan niệm của con người.
Điều đáng ngạc nhiên nhất đó là tinh thần tương trợ lẫn nhau, không khí của một đại gia đình đang tồn tại thực sự trong công ty này. Hầu hết các nhà phân phối Vision đều hiểu rất rõ ràng rằng các đồng nghiệp của họ (và không chỉ trong công ty họ), những đại diện của một nghề nghiệp mới mà xã hội đang đánh giá một cách không đồng nhất, không phải là đối thủ cạnh tranh, mà là đồng đội trong cùng một công việc khó khăn mà họ phải cùng nhau đạt được ưu thế và sự công nhận cho nghề nghiệp mới này. Họ hiểu rât rõ rằng một hành động không đúng đắn và không nghiêm túc có thể mang lại lợi ích trước mắt nhỏ bé, nhưng có thể gây tác hại to lớn cho uy tín của cả nghề nghiệp, cho bản thân họ cũng như cho công ty. Vì thế trong Vision có cả một uỷ ban về luân lý, bao gồm không phải từ các nhân viên công ty, mà là từ các nhà phân phối để giám sát các nguyên tắc luân lý trong hoạt động của các nhà phân phối. Bạn hãy tự đánh giá: làm sao có thể có tinh thần không trong sáng khi mang điều tốt đẹp đến cho mọi người thông qua truyền bá sức khoẻ? Tất nhiên là không thể nào như vậy được!
(Tạp chí Sự kiện)
Đừng để những kẻ hoài nghi làm bạn nản lòng!
Rất hiếm khi nhà phát minh nghĩ ra một ý tưởng mà ngay lập tức ý tưởng đó được công nhận là tuyệt vời và có khả năng mang lại lợi nhuận cao, ví dụ như Gerry Thomas với ý tưởng bữa ăn tối kiểu TV, Edwin Land với ý tưởng chiếc máy chụp ảnh lấy ngay, hay Erno Rubik với ý tưởng khối xoay lập phương. Thường thì ý tưởng của các nhà phát minh được chào đón bằng sự hoài nghi, thậm chí chế nhạo. Một chiếc thùng nhỏ đóng trên chiếc cột để thu tiền của những người muốn đỗ xe trên phố ư? Một con búp bê dành cho các cậu bé? Thậm chí cả ông tổ phát minh ở Mỹ, Thomas Edison, cũng không thể thuyết phục được ai thử nghiệm ý tưởng đầu tiên của ông về chiếc máy bỏ phiếu bằng điện. “Tôi nản lòng đến mức cho rằng mình đã thất bại”, sau này Edison nói.
Có một thực tế là nhiều người tự coi mình là nhà phát minh đã đưa ra những ý tưởng kỳ cục, chẳng hạn như chiếc máy vỗ về nhẹ nhàng có thể giúp bạn tránh được dị ứng khi âu yếm chó hay mèo của mình, thuốc lá có đầu lọc bằng pho mát, chiếc quạt giúp bạn trượt tuyết lên đỉnh đồi… Bất kỳ nhà phát minh nào cũng phải có một chút gì đó lập dị, chưa kể đến tính bướng bỉnh, tự quan trọng hoá, không chịu lắng nghe những lời khuyên cũng như những lời phê bình của bạn bè và gia đình. Một số người tin rằng những yếu tố cần thiết để phát minh không thể có được nhờ dạy dỗ, bởi đó là năng khiếu thiên bẩm. Edward Lowe, người phát minh ra Kitty Litter, đã gọi tinh thần sáng tạo và khởi nghiệp là “kiểu chó săn thỏ”. “Bạn không thể trở thành “một nhà kinh doanh chỉ bằng cách tới trường học được”, ông Lowe nói trong một cuộc phỏng vấn. “Nếu bạn không có khả năng, bạn sẽ không thể làm việc được. Giống như chó săn thỏ vậy – ngay khi bạn vừa thả một con chó săn thỏ ra, thì ngay lập tức nó sẽ chạy đuổi theo con thỏ”. Các nhà phát minh được miêu tả sau đây đã có những ý tưởng hay, nhưng lại bị mọi người chế nhạo hoặc coi thường. Mặc dù không phải tất cả, nhưng không hiếm các nhà phát minh đó, cuối cùng đã thành công.
Đừng bỏ qua các sản phẩm bị bỏ rơi
Charles Darrow không phải là người phát minh ra trò chơi Monopoly. Tác giả thực sự của trò chơi này là một người phụ nữ có tên là Elizabeth Magie Phillips. Bà đã sáng tạo ra các mẫu hình đầu tiên vào năm 1904 và gọi nó là trò chơi Landlord. Nhưng đến năm 1933, Darrow, một kỹ sư thất nghiệp, đã tận dụng ý tưởng của bà Phillips và thiết kế lại, bổ sung thêm các bảng màu và các miếng đồ chơi bằng gỗ. Trước tiên, ông Darrow làm đồ chơi này bằng tay, nhưng dần dần nhu cầu về Monopoly tăng lên vượt quá khả năng sản xuất của ông và gia đình là 6 bộ một ngày. Ông quyết định chào bán Monopoly cho hai hãng sản xuất đồ chơi lớn của Mỹ là Công ty Parker Brother và Milton Bradley . “Sau khi xem xét và cân nhắc kỹ lưỡng về trò chơi Monopoly, chúng tôi không cảm thấy cần thiết đưa thêm trò chơi này vào hệ thống các sản phẩm của chúng tôi”, giám đốc của Milton Bradley viết như vậy trong thư phúc đáp Darrow vào năm 1934. Còn Parker Brother thì gay gắt hơn, liệt kê tới “52 lỗi cơ bản” trong trò chơi này: quá phức tạp, mất nhiều thời gian để chơi, và mọi người chắc hẳn không muốn vây quanh một cái bảng lâu đến như vậy.
Darrow đã đầu tư toàn bộ số tiền tiết kiệm của ông để sản xuất 7500 bộ trò chơi và các phiên bản này nhanh chóng được bán hết. Lúc đó, Parker Brother mới cho rằng trò chơi của Darrow không đến nỗi tồi như họ đánh giá và mua lại quyền sản xuất bộ trò chơi này của ông. Vào năm 1936, công ty này bán được 1,8 triệu bản Monopoly, còn Darow trở thành triệu phú.
Thực phẩm đông lạnh
Clarence Birdseye là một người ưa mạo hiểm và có trình độ học vấn cao, nói chung là ở anh ta hội đủ tất cả các yêu cầu cần thiết của một nhà phát minh. Nhưng ý tưởng cực kỳ sáng suốt của Birdseye về thực phẩm đông lạnh, để được thừa nhận, đã phải vượt qua rất nhiều thành kiến cũ xưa của mọi người. Sống ở Labrrador, Birdseye rất cần thực phẩm tươi trong suốt mùa đông lạnh giá và kéo dài gần nửa năm nơi đây. Birdseye nhận thấy người Eskimos làm đông lạnh cá nhanh chóng ở nhiệt độ -40 độ C hoặc thấp hơn, và thật kỳ diệu, sau nhiều tuần, những con cá này vẫn có mùi vị rất thơm ngon. Nhưng không may cho Birdseye, các nhà cung cấp thực phẩm đã cho công chúng thưởng thức hương vị không mấy ngon lành của rau và thịt đông lạnh theo phương pháp truyền thống. Họ thường ném thực phẩm vào kho lạnh, với thùng làm lạnh từ từ, các tinh thể đá có thừa thời gian để phá hủy tế bào của thực phẩm. Sau khi rã đông, thực phẩm được làm lạnh theo lối này biến thành một hỗn hợp màu xám xịt. Ngoài ra, lúc này người Mỹ bắt đầu thích dùng đồ hộp do thực phẩm đóng hộp có chất lượng cao và dễ dàng vận chuyển, lưu kho. Và các ông chủ cửa hàng tạp hoá thì ngần ngại không muốn lắp các ngăn lạnh mới để bảo quản sản phẩm đông lạnh của Birdseye. Nhưng Birdseye không đầu hàng. Ông vay tiền mở một nhà máy sản xuất thực phẩm đông lạnh của riêng mình. Sau thời gian khá dài chiến đấu chống lại nguy cơ phá sản luôn rình rập, vào năm 1929, Birdseye đã bán công ty của mình cho Postum (sau này là General Foods). Với sự tiếp sức của hoạt đông tiếp thị tại General Food, sản phẩm thực phẩm đông lạnh mang nhãn hiệu Birds Eye bắt đầu được bày bán ở nhiều cửa hàng tạp hoá.
Súng ngắn Colt
Samuel Colt đã từng đam mê súng ngắn hơn bất cứ cậu bé nào thời kỳ đầu thế kỷ 19 ở Mỹ, nhưng ngành công nghiệp sản xuất súng ở Mỹ lại không quan tâm tới loại vũ khí mới gọi là súng lục ổ quay. Là con trai chủ một nhà máy dệt, Colt trở thành thương gia đi biển ở tuổi 15. Trong chuyến đi tới Ấn độ, Colt nhìn thấy một thứ vũ khí làm cậu say mê: một khẩu súng có thể nhả đạn nhiều lần mà không cần lên đạn. Trên chuyến tàu trở về Mỹ, Colt bắt đầu đẽo mẫu súng lục cải tiến. Năm 1831, anh chàng Colt 18 tuổi tìm cách chế tạo những khẩu súng lục ổ quay, nhưng không có tiền và việc làm, cậu đành từ bỏ dự án này và quay lại làm việc cho cha mình. Cuối cùng, Colt cũng tích cóp được đủ tiền để thuê thợ chế tạo mẫu súng lục mới. Năm 1836, ông đăng ký bản quyền khẩu súng lục ổ quay và xây dựng nhà máy sản xuất loại súng này. Tuy nhiên khi đó, nhà máy của ông chỉ có rất ít khách hàng. Cục quân nhu của quân đội và hầu hết các nhà sản xuất súng ở Mỹ đều hài lòng với khẩu súng hỏa mai và súng lục bắn từng phát một. Họ cho rằng khẩu súng ổ quay của Colt không đáng tin cậy và quá phức tạp. Chính phủ Mỹ đặt mua súng của ông, nhưng không đủ để ông duy trì hoạt động của công ty, vì thế đến năm 1842, Colt buộc phải đóng cửa nhà máy. Thế nhưng có một vài sĩ quan quân đội, trong đó có tướng Sam Houston, nhận ra rằng khẩu súng lục ổ quay của Colt rất hữu dụng trong những trận chiến chống lại một lực lượng đông hơn. Sau đó, quân đội đặt mua súng của Colt, và chỉ trong một thập kỷ, ông đã trở thành triệu phú. Ông viết về nỗi thất vọng của mình với tư cách là một nhà phát minh trong một bức thư sai nhiều lỗi chính tả và ngữ pháp cho tướng Houston như sau: “Tôi thực sự vui mừng được biết, ngài đã rũ bỏ thành kiến vẫn thường ngự trị ở những người có thế lực khi ra quyết định khuyến khích hay vùi dập các cải tiến về súng lục cho quân đội”.
Kế hoạch đi trước thời đại
Sinh ra ở vùng Birmingham, Alabama, bà Anderson tới thăm New York vào năm 1903 và thật sự kinh hãi trước thời tiết và cả cách mà những người lái xe đối phó với nó trên đường phố. Khi tuyết rơi hoặc mưa, họ phải dừng xe lại, ra ngoài, dùng tay lau sạch kính chắn gió, rồi lại chui vào xe và lại tiếp tục lái. Bà bắt đầu vẽ phác thảo cần gạt để lau kính chắn phía trước và sau mà người lái có thể vận hành từ bên trong để làm sạch kính bên ngoài. Năm sau, bà Anderson đề nghị được cấp bằng sáng chế cho thiết bị cần gạt có thể điều khiển từ phía trong xe hơi với lực đòn bẩy khiến một cái cần gấp lò so có lưỡi cao su gạt qua gạt lại trên mặt kính. Bà được cấp bằng sáng chế vào năm 1905. Nhưng thật không may, có rất ít xe hơi chạy trên đường phố vào thời điểm năm 1905, và ngay cả những người có xe cũng cho rằng thiết bị của bà Anderson là ngớ ngẩn. Họ lập luận rằng người lái xe trong lúc vận hành thiết bị lau kính này có thể sao lãng việc quan sát đường và lưỡi quét có thể che khuất tầm nhìn. Tất nhiên bà Mary Anderson không thể tìm ra tiền đầu tư cho phát minh của mình. Tuy nhiên, chỉ sau đó một thập kỷ, cần lau kính trở thành thiết bị tiêu chuẩn đối với những chiếc xe của Mỹ. Có thể bà Anderson và những nhà phát minh khác đã từng bị chế giễu sẽ được an ủi phần nào trước thái độ của Tổng thống Rutherford Hayes khi lần đầu tiên sử dụng điện thoại: “Một phát minh tuyệt vời, nhưng ai sẽ muốn dùng nó đây?”.
Vì sao giới trẻ Việt Nam vẫn ngại kinh doanh?
Một điều tra mới đây của Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho thấy, số người dưới 30 tuổi ở Việt Nam chọn con đường kinh doanh khởi nghiệp và trở thành chủ doanh nghiệp là rất thấp, chỉ chiếm 7,28% trong hơn 40.000 doanh nghiệp được điều tra.
Số liệu điều tra cho thấy, độ tuổi của chủ doanh nghiệp Việt Nam cụ thể là, dưới 30 tuổi chiếm 7,28%; từ 30 đến 40 tuổi chiếm 25,67%; từ 41 đến 50 tuổi chiếm 31,71%; trên 50 tuổi chiếm 19,29%...
Theo các chuyên gia, tỷ lệ này là khá thấp so với các nước khác và cần phải khơi dậy tinh thần kinh doanh trong giới trẻ thông qua các chương trình đào tạo và khuyến khích họ lập nghiệp.
Vậy, vì sao giới trẻ Việt Nam ngại kinh doanh, dẫu vẫn biết "phi thương bất phú"?
Giấc mơ làm người nhà nước
Ngay từ khi bước chân vào Đại học, rất nhiều sinh viên mơ tới một ngày mai tươi sáng. Và một trong những giấc mơ tươi sáng nhất với đa số họ là được làm người nhà nước. Với họ, mọi kỳ thi không thể nào quan trọng bằng kỳ thi công chức. Có đỗ cao trong kỳ tốt nghiệp, nhưng ra trường trượt thi công chức coi như vỡ mộng. Và lại ôn tập cho kỳ thi công chức năm sau. Có đi làm chỉ là chờ đợi cơ hội.
Thứ nhất, các bậc phụ huynh nuôi con ăn học đã luôn cấy vào đầu con mình tư tưởng được làm "người nhà nước". Theo đó, làm nhà nước là để đảm bảo chắc chân lâu dài, không sợ mất việc. Vào nhà nước là để "ăn về sau", tức là được hưởng trợ cấp, lương hưu lâu dài và thậm chí mỗi năm đến ngày lễ, ngày hội ngành... được một vài món quà có giá trị.
Thứ hai là, thực chất, "người nhà nước" theo như hiểu biết của những người trẻ tuổi là những người luôn an toàn trước mọi biến cố kinh tế. Chẳng hạn, khi giá tăng, chính sách lương sẽ được điều chỉnh để phù hợp với giá cả. Còn những người bình thường sẽ phải gánh chịu tất cả những biến cố đó mà không thể vịn vào ai.
Và còn nhiều những "đặc quyền" khác mà người trẻ tuổi cảm thấy muốn được hưởng. Đó cũng chính là những rào cản ngăn họ thoát ra khỏi luồng suy nghĩ bình thường để trở thành một ông chủ doanh nghiệp thực thụ.
Quan niệm của xã hội
Phần lớn cử nhân sau khi tốt nghiệp muốn làm "người nhà nước" hoặc
làm thuê, khiến cho số ít doanh nhân có trình độ từ cử nhân trở lên. Quan niệm của những người sống quanh ta quả là không nhỏ. Nếu bạn đang chinh phục một cô gái "con nhà lành", điều cần thiết nhất để chứng minh tính nghiêm túc trong tình yêu của mình với phụ huynh cô ta là bạn phải khẳng định được mình đang có một công ăn việc làm ổn định.
Và với họ, chỉ có làm trong cơ quan nhà nước mới có thể nói là ổn định! Hỏi thế nào là ổn định bạn sẽ được giải thích như điều thứ nhất vừa nói. Nếu nói đang làm cho một doanh nghiệp tư nhân hoặc đang lập nghiệp với một công ty riêng nho nhỏ, sẽ xuất hiện vài tiếng thở dài và ánh mắt nghi ngại.
Đó là chưa kể tới quan niệm "con buôn", dù mấy năm gần đây đã "nhạt phai" theo dòng chảy của cơ chế thị trường, vẫn còn hiển hiện. Đi buôn là đi đánh quả, là làm lậu, là trục lợi trên mồ hôi người khác!!!
Và vô số những quan niệm hết sức lệch lạc, cũ kỹ mà điểm tựa cho nó là những lý giải hết sức ngây thơ và duy ý chí.
Tự bó mình trong những vòng vây khó
Thế nhưng, bản thân những chàng trai cô gái trẻ ở Việt Nam ngày nay cũng đang tự làm khó cho mình, tự chùn tay trước khi chọn hướng khởi nghiệp. Nhiều người quan niệm, trước tuổi 30 cần có một sự nghiệp vững chắc. Và với đại đa số nhiều người, sự nghiệp thường là một công ăn việc làm có thu nhập khá ở một đơn vị nào đó tương đối lớn và có triển vọng. Đúng, nhưng chưa đủ.
Ít người coi sự nghiệp của mình là một công ty, một cửa hàng do chính mình lập ra. Sự nghiệp không thể chỉ là một quán "cơm bụi" được, tầm thường quá. Sự nghiệp lại càng không thể là một cái gì đó chứa đựng nhiều rủi ro, nhỡ thua lỗ là hỏng cả sự nghiệp thì sao... Vô số những cái que nhỏ lẻ ấy đã tạo thành một rào cản cực lớn ngăn cản không ít người trẻ gia nhập thương trường.
Thế nhưng, ngay cả khi đã quyết chọn sự nghiệp cho mình là khởi nghiệp với một công ty riêng hay cửa hàng độc lập, vẫn còn vố số vòng kim cô khác thít chặt lấy tư duy của những người trẻ tuổi. Một người học khoa quản lý nhân lực nhất định tìm cách lập một doanh nghiệp có liên quan tới ngành đó, bất chấp địa phương mình hoạt động chưa có nhu cầu cao, trong khi lại bỏ lỡ cơ hội khởi nghiệp trong một ngành tuy trái với chuyên môn nhưng lại nằm trong khả năng xoay xở của mình. Người khác cho rằng khởi nghiệp trong ngành phần mềm thì sang trọng hơn khởi nghiệp trong ngành thức ăn gia súc... Đó là những chiếc vòng vẫn ngày ngày thít chặt tư duy các cô cử và kỹ sư trẻ tuổi!
Thiếu tư duy và khát vọng làm chủ
Tất cả các trở ngại trên, sở dĩ nhiều người trẻ ở Việt Nam không vượt qua nổi, chung quy lại là do thiếu tư duy và khát vọng làm chủ.
Rất nhiều sinh viên đang học một lúc 2 - 3 trường đại học. Vô số những người khác tranh thủ kiếm thêm cái bằng tin học, ngoại ngữ... ngoài giờ học chính khoá. Điều đó là nên làm. Song vấn đề lại ở chỗ mục tiêu học của họ thường chỉ là: để sau này nhiều người muốn thuê mình, để không xin được việc ở chuyên môn này thì làm cho hãng khác với chuyên ngành kia...
Rất ít người khẳng định mình học nhiều như thế để sau này tự làm cho chính mình trong khi nhân công còn thiếu hụt lúc vừa khởi nghiệp. Đa số vẫn thiếu tư duy làm chủ mà chỉ thiên về tư duy làm thuê! Tư duy ấy không có lợi cho những ai đủ điều kiện và cơ hội lập nghiệp riêng, ít nhất là như vậy.
Cũng rất ít những người trẻ ở Việt Nam mang trên mình khát vọng làm giàu cháy bỏng. Ai cũng muốn giàu có, song chỉ một chút trở ngại, chỉ vài thứ quyến rũ đâu đó bên ngoài, khát vọng ấy đã tắt rụi. Không dám đánh đổi những gì mình đang có để đạt được cái lớn hơn phía trước thì không thể là một doanh nhân được, đó là quy luật. Một việc làm với thu nhập tương đối cao và các khoản trợ cấp hậu hĩnh cộng với những khoản thu "ngoài sổ sách" hấp dẫn hơn hay là một việc làm với nguồn thu cao thấp bất thường hấp dẫn hơn?
Trên đây là một số nguyên nhân thường gặp mà vì nó, rất nhiều người trẻ ở Việt Nam đang bỏ phí những cơ hội làm giàu từ chính năng lực của mình. Vì những nguyên nhân như vậy mà tới ngày nay, số người dưới 30 tuổi ở Việt Nam chọn con đường kinh doanh để khởi nghiệp và trở thành chủ doanh nghiệp là rất thấp, chỉ chiếm 7,28% trong hơn 40.000 doanh nghiệp được điều tra.
Hy vọng, giới trẻ Việt Nam sẽ nhanh chóng thay đổi tư duy, sửa đổi cách nghĩ và làm, để qua đó tự bổ sung mình vào đội ngũ doanh nhân Việt Nam khoảng trên 1 triệu doanh nhân đang ở tuổi thanh niên chủ doanh nghiệp trẻ, năng động vào năm 2010.